Sáng ngày 13/4, Ban Chỉ đạo Xây dựng và Phát triển huyện Mường Lát (gọi tắt là BCĐ 1729 tỉnh) đã tổ chức hội nghị triển khai kế hoạch sản xuất trên địa bàn huyện Mường Lát. Đồng chí Lại Thế Nguyên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh, Trưởng Ban Chỉ đạo 1729 dự và phát biểu chỉ đạo hội nghị.

Dự hội nghị, về phía tỉnh còn có các đồng chí: Nguyễn Ngọc Tiến, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo 1729; Lê Đức Giang, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo 1729; đại diện lãnh đạo các ban, sở, ngành cấp tỉnh; Về phía huyện Mường Lát có các đồng chí: Hà Văn Ca, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện; Nguyễn Văn Bình, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện; Các đồng chí Ủy viên BTV Huyện ủy; lãnh đạo BCH quân sự huyện; Trưởng, phó các phòng, đơn vị chuyên môn thuộc UBND huyện; Lãnh đạo Đoàn Kinh tế Quốc phòng 5, Quân khu IV; lãnh đạo các Đồn Biên phòng đứng chân trên địa bàn huyện; Lãnh đạo các đơn vị: Hạt Kiểm lâm huyện, BQL rừng phòng hộ huyện, Ngân hàng Chính sách XH, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT; các đồng chí Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND, Chủ tịch UB MTTQ VN, cán bộ chủ chốt các xã, thị trấn; Bí thư chi bộ, trưởng các thôn, bản, khu phố trên địa bàn huyện cùng tham dự.

Tại hội nghị, đồng chí Cao Văn Cường, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh đã triển khai kế hoạch phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn huyện Mường Lát theo định hướng tại Nghị quyết số 11-NQ/TU, ngày 29-9-2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển huyện Mường Lát đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đồng chí Nguyễn Văn Bình, Phó Bí thư HU, Chủ tịch UBND huyện đã triển khai kế hoạch sản xuất nông – lâm nghiệp năm 2023 của huyện.

Theo đó, mục tiêu chung là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên địa bàn huyện Mường Lát theo hướng phát huy thế mạnh, phù hợp với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng, nhu cầu thị trường và thích ứng với biển đổi khí hậu, đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ. Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; phát triển nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGAP, xây dựng và phát triển một số sản phẩm đặc sản; khôi phục, bảo vệ và đẩy mạnh trồng rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái; góp phần giữ vững an ninh rừng, tạo việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân trên địa bàn huyện.

Mục tiêu cụ thể, giai đoạn 2021-2025 diện tích gieo trồng hằng năm đạt trên 5.100 ha; tổng sản lượng lương thực bình quân hằng năm đạt 13.000 tấn trở lên. Tỷ lệ che phủ rừng đến hết năm 2025 giữ ở mức 77%; sản lượng khai thác gỗ đạt 1.000 m3; tre, luồng, nứa, vầu đạt 300.000 cây. Hàng năm trồng mới trên 200 ha rừng tập trung. Đến năm 2025, tổng đàn trâu trên địa bàn huyện đạt 7.000 con, đàn bò 17.100 con, đàn dê 4.200 con, đàn lợn 15.000 con, đàn gia cầm 160.000 con, sản lượng thịt hơi các loại 3.500 tấn. Diện tích nuôi trồng thủy sản trên ao, hồ đến năm 2045 đạt 47 ha; nuôi cá lồng trên song, hồ thủy điện đạt 5.000m3; sản lượng thủy sản đạt 140 tấn. Diện tích đất nông nghiệp được tích tụ, tập trung để sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao đến năm 2025 đạt 450 ha.

Giai đoạn 2026-2030, diện tích gieo trồng hàng năm ổn định 5.100 ha; tổng sản lượng lương thực bình quân hàng năm đạt 13.500 tấn. Tỷ lệ độ che phủ rừng đến hết năm 2030 đạt 80%. Diện tích nuôi trồng thủy sản trên ao hồ đến năm 2030 đạt 47 ha; nuôi cá lồng trên song, hồ thủy điện đạt 8.000m3; sản lượng thủy sản 190 tấn. Diện tích đất nông nghiệp được tích tụ, tập trung để sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao đến năm 2030 đạt 800 ha…
Căn cứ điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu, phong tục tập quán, trình độ sản xuất của người dân, định hướng phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn huyện Mường Lát được phân thành 4 khu vực: Khu vực 1 gồm 3 xã Trung Lý, Mường Lý, Tam Chung; khu vực 2 gồm 2 xã Quang Chiểu, Mường Chanh; khu vực 3 gồm 2 xã Pù Nhi, Nhi Sơn; khu vực 4 thị trấn Mường Lát.

Định hướng sản xuất theo lĩnh vực trồng trọt là tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên địa huyện theo hướng phát huy thế mạnh, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng; trong đó tập trung phát triển sản phẩm có lợi thế của huyện như cây lúa, cây ngô, cây sắn… Lĩnh vực chăn nuôi, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng hàng hóa, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính của huyện; nhất là những nơi có đất trồng trọt hoặc có đất nhưng bạc màu, tầng canh tác mỏng, hiệu quả trồng trọt thấp. Lĩnh vực lâm nghiệp là tăng cường quản lý, bảo vệ chặt chẽ, nghiêm ngặt diện tích rừng tự nhiên, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ hiện có 66.326 ha. Lĩnh vực thủy sản, tận dụng diện tích mặt nước, ao, hồ, sông suối để nuôi trồng thủy sản; đẩy mạnh phát triển nghề nuôi cá lồng trên khu vực lòng hồ sông Mã và trên các vùng nước ven sông, suối gắn với bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản.
Để tổ chức triển khai thực hiện, kế hoạch đề ra các nhiệm vụ, giải pháp đó là: Thực hiện tốt công tác quy hoạch, tích tụ, tập trung và bố trí sử dụng đất đai hiệu quả; phát triển hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn; nâng cao năng lực phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; đổi mới hình thức tổ chức sản xuất, tăng cường liên kết và hợp tác; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất nông, lâm thủy sản; huy động tối đa các nguồn lực đầu tư phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản.

Phát biểu chỉ đạo hội nghị, đồng chí Lại Thế Nguyên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh, Trưởng Ban Chỉ đạo 1729 tỉnh ghi nhận và đánh giá cao sự nỗ lực, cố gắng của các ngành của tỉnh, đặc biệt là cấp ủy, chính quyền huyện Mường Lát trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 11 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển huyện Mường Lát. Đồng chí Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy đề nghị cấp ủy, chính quyền huyện Mường Lát theo tinh thần Nghị quyết số 11 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo vận động Nhân đân thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với Mường Lát là tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm tình trạng phá rừng, đốt rừng để làm nương rẫy. Việc phát triển rừng cần tập trung vào những loại cây đã được xác định trong Nghị quyết số 11 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và cây bản địa, cây có giá trị kinh tế như cây trẩu, cây quế… Bảo vệ vững chắc diện tích đất trồng lúa nước và mở rộng diện tích (nếu có); đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất, đưa giống mới vào sản xuất; kết hợp sản xuất các loại cây lương thực khác trên địa bàn như cây ngô, sắn… để đảm bảo anh ninh lương thực tại chỗ trên địa bàn.
Đối với cây sắn, hiện nay đã có doanh nghiệp là Nhà máy chế biến tinh bột sắn Phúc Thịnh cam kết thu mua cho người dân. Đây chính là cơ hội để huyện Mường Lát mở rộng diện tích trồng sắn gắn với liên kết, bao tiêu sản phẩm. DO vậy, huyện Mường Lát phải tập trung để phát triển vùng trồng sắn với diện tích từ 2.500 ha trở lên theo hướng tập trung quy mô lớn, gắn với đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất và liên kết, chế biến, bao tiêu sản phẩm. Phải xây dựng được sự gắn bó giữa ba nhà, gồm: nhà nước, nhà nông, nhà doanh nghiệp. Trong đó, nhà nước, mà trực tiếp là cấp ủy, chính quyền các cấp huyện Mường Lát phải xác định rõ diện tích, vị trí vùng nguyên liệu sắn, có quy hoạch cụ thể, rõ rang để các xã, thôn bản chỉ đạo, hướng dẫn người dân trồng; theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn người dân thực hiện đúng nguyên tắc hợp đồng ký kết với doanh nghiệp. Đối với người trồng sắn, phải thực hiện nghiêm túc hợp đồng đã ký kết với doanh nghiệp; tập trung trồng, chăm sóc diện tích sắn có trong quy hoạch, kế hoạch.
Đối với doanh nghiệp, cần cung ứng giống, phân bón, hướng dẫn kỹ thuật trồng cho người dân. Đảm bảo ký hợp đồng với người dân, trong đó thỏa thuận rõ giá cả thu mua sắn, bao tiêu toàn bộ sắn do người trồng trên địa bàn; hướng dẫn kỹ thuật trồng sắn, chăm sóc; đưa giống mới có năng suất, chống chịu được với sâu bệnh vào sản xuất. Đồng thời cử cán bộ kỹ thuật cắm bản để hướng dẫn bà con. Trong mọi điều kiện phải bảo đảm bao tiêu sản phẩm sắn cho người dân; quan tâm chính sách an sinh xã hội cho người dân.
Đối với người nông dân, cần nhận thức rõ lợi ích của trồng cây sắn trên địa bàn khi đây là loại cây phát triển được ở mảnh đất này, có năng suất, có đầu ra ổn định thu nhập cũng khá so với loại cây trồng khác. Đồng thời phải trồng sắn theo quy hoạch đất đai và cây trồng đã được xã, huyện thông báo. Thực hiện nghiêm túc hợp đồng trồng sắn đã ký với doanh nghiệp; trong đó điều quan trọng nhất là cam kết thực hiện đúng hợp đồng bán sắn cho doanh nghiệp.
Đồng chí Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy khẳng định, có doanh nghiệp đồng hành cùng huyện, cùng bà con nông dân trồng sắn là cơ hội tốt để Mường Lát chuyển đổi cơ cấu cây trồng; để Mường Lát sản xuất gắn với chế biến, ổn định đầu ra của sản phẩm và là điều kiện để phát triển nông nghiệp tập trung, quy mô lớn, gắn với chế biến… Do đó, cấp ủy, chính quyền huyện Mường Lát cần tập trung chỉ đạo bằng được nhiệm vụ này.
Về trồng rừng, đồng chí Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy đề nghị trên cơ sở đánh giá về thổ nhưỡng và thực tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và huyện Mường Lát phải xây dựng kế hoạch cụ thể, xác định rõ năm 2023, năm 2024 tại 4 vùng của huyện sẽ trồng những loại cây lâm nghiệp gì, ở đâu, diện tích bao nhiêu… để chỉ đạo các xã và hướng dẫn người dân làm.
Đối với các loại cây trồng như cây quế, cây trẩu và một số loại cây trồng khác, đồng chí đề nghị huyện Mường Lát phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện về sự phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, giá trị kinh tế để có các kế hoạch phát triển sản xuất phù hợp.

Phát biểu kết luận hội nghị, đồng chí Hà Văn Ca, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện cảm ơn sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh dành cho huyện Mường Lát trong thời gian qua. Đồng thời, tiếp thu quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện có hiệu quả những ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lại Thế Nguyên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh, Trưởng BCĐ Xây dựng và phát triển huyện Mường Lát; thực hiện nghiêm túc, hiệu quả nghị quyết; bám sát kế hoạch sản xuất của tỉnh, thực tiễn địa phương để đưa nghị quyết vào cuộc sống góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu mà Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 29/9/2022 của BTV Tỉnh ủy đã đề ra về xây dựng và phát triển huyện Mường Lát đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.